BỆNH VIRUS GÂY HOẠI TỬ DƯỚI VỎ VÀ CƠ QUAN TẠO MÁU (IHHNV) TRÊN TÔM- HCVMNA
Giải pháp khắc phục bệnh virus gây hoại tử dưới vỏ và cơ quan tạo máu (IHHNV) trên tôm
Tôm là loài giáp xác có giá trị xuất khẩu cao được nuôi phổ biến tại các huyện vùng U Minh Thượng, tứ giác Long Xuyên thuộc tỉnh Kiên Giang. Nghề nuôi tôm đã góp phần giải quyết đáng kể công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân vùng nông thôn, ven biển.
Tuy vậy, bên cạnh những lợi ích kinh tế mang lại, nghề nuôi tôm đang đứng trước thách thức lớn về tình hình dịch bệnh. Theo kết quả xét nghiệm của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy Sản II và Chi cục Thú y tỉnh Kiên Giang cho thấy bệnh IHHNV là bệnh thường gặp ở tấc cả các vùng nuôi và gây thiệt hại kinh tế cho người nuôi. Do vậy, bà con nuôi tôm cần chú ý các dấu hiệu bệnh lý và tác nhân gây bệnh để khắc phục bệnh IHHNV trên tôm, nhằm góp phần giảm thiệt hại và phòng ngừa dịch bệnh lây lan.
1 – Tác nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh hoại tử dưới vỏ và cơ quan tạo máu là giốngParvovirus. Virus ký sinh trong nhân tế bào tuyến anten, tế bào hệ bạch huyết, tế bào mang, tế bào dây thần kinh, không có thể ẩn mà có thể vùi, chúng làm hoại tử và sưng to nhân vật chủ.
2 – Dấu hiệu bệnh lý
Tôm nhiễm bệnh IHHNV thường hôn mê, hoạt động yếu, chủy biến dạng. Tôm sú (Penaeus monodon) bị bệnh lúc sắp chết thường chuyển màu xanh, cơ phần bụng màu đục. Ấu trùng và hậu ấu trùng có thể đã nhiễm virus nhưng bệnh không xảy ra, đến giai đoạn postlarvae 35 thì dấu hiệu chính của bệnh mới thể hiện và kèm theo tỷ lệ chết dữ dội. Tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) thể hiện hội chứng dị hình còi cọc, tôm giống chủy biến dạng, sợi anten quăn queo, vỏ kitin xù xì hoặc biến dạng. Tôm kém ăn, phân đàn cao. Hệ số còi cọc trong đàn tôm giống thẻ chân trắng bị bệnh IHHNV thường từ 10 – 30%, khi bị bệnh nặng hệ số còi cọc lớn 30% có khi tới 50%.
3 – Đặc điểm phân bố và lây truyền của bệnh
Bệnh IHHNV lan truyền cả chiều đứng và chiều ngang. Trong quần đàn tôm nhiễm IHHNV, những con bị bệnh mà sống sót sẽ mang virus theo suốt cuộc đời và sau khi tham gia sinh sản sẽ truyền virus cho thế hệ con (lây truyền theo chiều đứng). Ngoài ra, con khỏe ăn con bệnh làm bệnh này lây lan rất nhanh trong quần đàn tôm nuôi (lây nhiễm theo trục ngang).
4 – Giải pháp khắc phục bệnh
IHHNV là bệnh do virus, nên hiện nay chưa có thuốc đặc hiệu chữa trị. Do đó, giải pháp khắc phục bệnh là định hướng chủ yếu để quản lý bệnh này trong thực tế sản xuất. Để khắc phục bệnh cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
– Chỉ nên dùng tôm mẹ không nhiễm virus để tham gia sinh sản nhân tạo trong các trại tôm giống.
– Nên chọn những đàn giống không nhiễm IHHNV bằng kỹ thuật PCR nuôi thịt.
– Có thể áp dụng kỹ thuật sốc post larvae bằng formol (150 – 200 ppm) thời gian 30 phút và sục khí mạnh để loại đi những con post larvae yếu và mang mầm bệnh trước khi thả tôm giống xuống ao nuôi thương phẩm.
– Làm tốt công tác tẩy dọn vệ sinh trước và sau một vụ nuôi để diệt virus tự do, diệt và ngăn chặn xâm nhập của những cơ thể sinh vật mang virus (cua, còng, chim ăn cá).
– Áp dụng hình thức nuôi tôm ít thay nước và không lấy nước trực tiếp từ biển để tránh sự xâm nhập của virus vào ao; duy trì thích hợp và ổn định các yếu tố môi trường.
– Trong ao chứa nước, có thể dùng Neguvon để diệt các sinh vật mang mầm bệnh với nồng độ 0,4 – 0,6 ppm và làm mất khả năng cảm nhiễm của virus tự do trong nước bằng một số hóa chất sát trùng như formol 30 – 50 ppm, chlorine 30 – 60 ppm,…
– Tùy theo từng địa phương mà chọn vụ nuôi thích hợp, tránh mùa mà bệnh thường xuất hiện là giải pháp có hiệu quả để khắc phục bệnh trong thực tiển sản xuất. Ngoài ra, quản lý chất lượng nước và môi trường ao nuôi luôn thích hợp và ổn định là phương pháp quan trọng và có hiệu quả.
– Khi bệnh đã xảy ra, cần dùng thuốc sát trùng với nồng độ cao (chlorine > 70ppm) diệt virus và sinh vật mang virus trước khi thả ra môi trường bên ngoài để giảm bớt sự lây lan trên diện rộng.
>>Tham khảo: Một số sản phẩm xử lý nước và các men vi sinh giúp cho tôm phát triển